The Gloria and Final Doxology

Các chú thích nếu không có giải thích gì thêm là chú thích của MinhAnh


Trích The Eucharistic Celebration: The Source and Summit of Faith của Adolf Adam, trang 27 – 30 và 93 – 94.


Kinh Vinh danh

Hướng Dẫn Chung gọi kinh Vinh danh là “một thánh thi cổ kính mà qua đó Giáo hội, được quy tụ trong Chúa Thánh Thần, ngợi ca và cầu xin Thiên Chúa Cha và Chiên Thiên Chúa” (GIRM 31). Theo ý kiến của các học giả đương thời, đây là một trong số các thánh thi Kitô Giáo thời đầu “được soạn theo hình thức thánh vịnh và tiếp nối truyền thống thánh thi của Tân Ước.”

Trong giáo hội Byzantine, kinh Vinh danh được sử dụng trong giờ kinh sáng (Orthros)[1]. Kinh được giới thiệu lần đầu tiên đến Giáo hội phương Tây như một phần của phụng vụ Thánh lễ, thường chỉ trong các dịp lễ đặc biệt quan trọng hoặc lễ kính. Ngày nay kinh Vinh danh được sử dụng trong “các ngày Chúa nhật ngoài mùa Vọng và mùa Chay, vào các ngày lễ trọng, lễ kính và trong các dịp lễ trọng thể đặc biệt khác” (GIRM 31).

Nói đến cấu trúc kinh Vinh danh, không khó để xác định rằng kinh gồm 3 phần: bài ca của các thiên thần, phần vinh danh Thiên Chúa và phần ngợi khen và dành riêng cho Đức Kitô.

Sự mô tả của thánh Luca về bài ca của các thiên thần trên cánh đồng tại Bethlehem là chủ đề căn bản của toàn bộ bài thánh thi. Văn bản gốc Hy ngữ có nghĩa “Vinh danh Thiên Chúa trên trời.”[2]. Phần vinh danh Thiên Chúa này được tỏ hiện rõ ràng nơi sự nhập thể của Con của Người như thánh ý đầy yêu thương của Thiên Chúa Ba Ngôi để ban ơn cứu độ. Chính Chúa Giêsu trong cuộc sống trần thế của Người đã trở nên một ví dụ tuyệt hảo nhất cho “vinh quang của Thiên Chúa Cha”; ta cũng xác tín lại điều này trong vinh tụng ca ở cuối lời kinh Thánh thể. Hoa trái của thánh ý cứu chuộc của người chính là “bình an dưới thế cho dân Người.”[3]. Ở đây, “bình an” nghĩa là “shalom” trong tiếng Hipri: nó bao gồm tất cả các ân sủng của sự cứu chuộc, bao gồm tất cả mọi sự an lành trong hồn xác từng cá nhân cũng như sự hoà hợp tuyệt đối giữa con người với Thiên Chúa hay giữa con người với nhau. Thêm nữa, bài ngợi ca của các thiên tháng là một lời tuyên bố Tin Mừng ngắn gọn trong sự trọn vẹn của nó. Sự ca ngợi Thiên Chúa theo sau đó phát xuất một cách tự nhiên từ trái tim tràn đầy sự kinh ngạc và biết ơn, và cứ thế cuộn dâng như những ngọn sóng:

“Chúng con thờ lạy Chúa, chính con cảm tạ Chúa, chúng con ngợi khen Chúa vì vinh quang của Chúa”[4]

Chủ đề tác động mạnh mẽ của sự tôn thờ chan chứa này một lần nữa được chỉ ra cách rõ ràng là “vinh quang” của Thiên Chúa. Điều này cho thấy rõ là lời cầu nguyện của Kitô hữu không đơn thuần là những thỉnh cầu.

Những người chỉ nhớ đến Chúa khi ở chìm đắm trong nghịch cảnh hoặc chỉ cầu nguyện để tránh sự dữ vẫn chỉ đứng ngoài lề của linh đạo Kitô Giáo. Đối với Kitô hữu, những lời ngợi ca vừa là thực tại hiện sinh luôn sẵn có, vừa là công trình của đời họ. Phụng vụ các giờ kinh của Giáo hội luôn đảm bảo rằng những lời cầu nguyện này sẽ không bao giờ mai một; như thế Giáo hội tham phần vào bài vinh tụng ca mà Con Thiên Chúa nhập thể đã mang cùng Người xuống thế gian, và “được hát vang từ đời này đến đời kia ở mọi sảnh nơi nước trời.” (SC 83).

Ở phần cuối cùng, bản thánh thi lại một lần nữa hướng về đối tượng của sự thờ phượng và lại nói về Người cách vô cùng tôn kính:

“Chỉ có Chúa là đấng Thánh,
chỉ có Chúa là Chúa,
chỉ có Chúa là Đấng Tối cao.”

Cấu trúc theo kiểu này gần như tự động dẫn đến phần dành cho Đức Kitô Giêsu. Bởi “Ánh Sáng bởi Ánh Sáng, Thiên Chúa bởi Thiên Chúa”[5] (Nicene Creed), Người tham phần vào vinh quang của Thiên Chúa Cha. Trong nhiều bản văn truyền thống của thánh thi này, Chúa Thánh Thần cũng được nhắc đến lúc này; thường được theo sau bởi “Amen”, để chỉ rõ rằng phiên khúc này của thánh thi đã kết thúc, chuẩn bị chuyển qua một phần mới.

Phần mới này thể hiện sự tôn kính dành riêng cho Đức Kito, bắt đầu với những danh xưng uy nghi dành cho Đấng Cứu Thế: “Lạy Chúa là Thiên Chúa, là Chiên Thiên Chúa, là Con Đức Chúa Cha.” Mỗi danh xưng này là một lời tuyên xưng Đức tin ngắn gọn trong Đức Kito. Nhờ vào niềm tin như vậy, phần tiếp theo là một phiên khúc ngắn những lời cầu khẩn:

“Chúa xoá tội trần gian xin thương xót chúng con;
Chúa ngự bên hữu Đức Chúa Cha xin nhận lời chúng con cầu xin.”

Nếu chúng ta để tâm về thời kỳ bản thánh thi này ra đời, ta có thể hiểu rõ hơn tính chất đặc biệt của lời ngợi ca cuối cùng (Lạy Chúa Giêsu Kitô, chỉ có Chúa là Đấng Thánh, chỉ có Chúa là Chúa, chỉ có Chúa là đấng tối cao). Đó là thời kỳ tôn vinh vua chúa, là thời hoàng kim của các vị thần, và thời này cũng bao gồm việc tế lễ. Theo đó là việc Kitô hữu bị áp bức, phần nhiều liên quan đến danh xưng “Kyrios”[6]. Những người từ chối dâng hương bị xem là mối hiểm họa của xã hội, là kẻ thù của Chúa và đế quốc. Đó là bối cảnh mang đến cho lời tuyên xưng về Đức Kitô bản chất mang tính sống còn. Đừng ai nghĩ rằng tính chất đó đã mất đi trong thời này. Ngày nay những tà thần và những mộng tưởng đầy quyến rũ vẫn tìm đường len lỏi vào tâm hồn con người. Kitô hữu ngày nay vẫn phải tuyên xưng “Chỉ có Chúa là đấng Tối cao” qua lời nói và cuộc đời của mình.

Bài thánh thi kết thúc với một lời tuyên xưng khẳng định về Ba Ngôi:

“Lạy Đức Giêsu Kitô,
cùng Đức Chúa Thánh Thần,
trong vinh quang Thiên Chúa Cha.”

Bất cứ ai hát bài thánh thi này cần hiểu rằng sự tôn vinh Thiên Chúa Ba Ngôi không dừng lại khi kết thúc lời hát, mà thay vào đó, kinh Vinh danh phải luôn sống động trong đời sống của chúng ta. Song để sống lời tuyên xưng này, không có một nhịp điệu phổ quát hay một sách hướng dẫn nào thích hợp với tình trạng của tất cả mọi người. Kinh Vinh danh khi được hát trong vòng lửa dữ tợn của cuộc tử đạo và trong sự kiệt quệ của những người đang luẩn quẩn trong lề thói u mê thường ngày của họ. Thật vậy, ngay cả việc chịu đựng các gánh nặng nề, bệnh tật hay đau khổ tâm hồn trong đời sống thường ngày mà không than phiền, cũng như sự trợ giúp tha nhân vác thập giá của họ cũng trở thành một áng kinh Vinh danh ca tụng Thiên Chúa. Mỗi Thánh lễ ngày Chúa nhật hay các ngày lễ mừng mà ta tham gia mời gọi ta canh tân tinh thần này của Gloria Dei[7] – Vinh Quang của Thiên Chúa.

Nói về việc nên hát hay đọc kinh Vinh danh, ta nên tham khảo trực tiếp đến Hướng Dẫn Chung: “Kinh được động đoàn hát lên, hoặc được hát luân phiên giữa cộng đoàn và ca đoàn. Nếu không hát, mọi người sẽ đọc đồng thanh hoặc đọc đối đáp.” (GIRM 31). Sách lễ tiếng Đức cho phép việc thay thế kinh Vinh danh bằng phiên bản bài hát Vinh danh. Đáng buồn thay nhiều bài hát được chọn cho mục đích này lại không đủ giàu có về mặt nội dung so với bản thánh thi này; mặc dù những bài hát này cũng ca tụng Thiên Chúa, chúng không tóm gọn được những sự kiện trong công trình cứu độ của Thiên Chúa qua Đức Kitô.

Vinh tụng ca kết thúc

Mọi lời nguyện Thánh thể đều kết thúc với lời chúc tụng Ba Ngôi theo cấu trúc của vinh tụng ca kết thúc. Lúc này, linh mục nâng cao Mình Máu Thánh mà hát hoặc đọc lên rằng:

“Chính nhờ Người,
với Người,
và trong Người,
trong sự hiệp nhất với Chúa Thánh Thần,
mà mọi danh dự và vinh quang đều quy về Chúa,
là Cha toàn năng,
đến muôn đời.”

Trong vinh tụng ca này chúng ta nhận ra “cấu trúc cổ điển ẩn chứa trong mọi lời nguyện Kitô Giáo”, đó là lời nguyện cầu đến Thiên Chúa Cha qua Đức Kitô Giêsu trong Chúa Thánh Thần. Cả cuộc sống trần thế của Chúa Giêsu là một sự tôn vinh cho Thiên Chúa Cha, như Người đã khẳng định trong lời cầu nguyện tư tế: “Phần con, con đã tôn vinh Cha ở dưới đất, khi hoàn tất công trình Cha đã giao cho con làm.” (Ga 17, 4). Đỉnh điểm của công trình này là sự hy sinh của Người trên thập giá, được nhớ đến cách thiêng liêng trong Lời nguyện Thánh thể. Trong sự hiệp thông sâu sắc với Người qua sức mạnh của vị thế tín hữu của ta trong Cơ thể Màu nhiệm của Người, chúng ta cũng được dâng lời ca tụng và ngợi khen Thiên Chúa Cha. Điều này diễn ra trong Chúa Thánh Thần, là tình yêu chảy ngược từ Chúa Con đến Chúa Cha.

Công đoàn củng cố lời vinh tụng này với một từ tiếng Hipri: “Amen”, có nghĩa “Vâng, thật là như vậy.” Justin Martyr, một triết gia Kitô giáo thời đầu, cho từ ngữ này một ý nghĩa vô cùng đặc biệt khi đọc sau lời tạ ơn. Học giả Kinh thánh vĩ đại là Thánh Jerome đã so sánh tiếng “Amen” hùng hồn của các tín hữu trong các giáo đường La Mã như tiếng sấm từ trời. Thánh Augustine mô tả nó như dấu ấn riêng của cộng đoàn dưới lời nguyện cầu của linh mục.

Ở cuối Lời nguyện Thánh thể, tiếng “Amen” này không chỉ hướng về lời vinh tụng ca kết thúc, mà thay vào đó, xác tín lại toàn bộ Lời nguyện Thánh thể, bao gồm cả sự hy sinh của Đức Kitô được nhắc đến trong lời nguyện cũng như sự tự hiến dâng của Giáo hội để trở thành một phần trong hy lễ của Người. Do đó, “Amen” là một phần quan trọng trong phần lời nguyện của cộng đoàn. Vì lý do này mà phần dẫn nhập của Sách lễ yêu cầu rằng linh mục chỉ được hạ bánh và chén lễ sau tiếng “Amen” này.


Ghi chú

[1] Trong Nghi lễ Byzantine của Giáo hội Chính thống Đông phương và các Giáo hội Công giáo Đông phương, Orthros (Hy ngữ ὄρθρος, có nghĩa là “rạng đông” hoặc “bình minh”) là giờ kinh cuối cùng trong bốn giờ kinh nguyện đêm. Trong các tu viện truyền thống, nó được tổ chức hàng ngày và kết thúc vào lúc mặt trời mọc.
Tham khảo thêm tại: https://en.wikipedia.org/wiki/Orthros
[2] Glory to God in the highest
[3] Peace to his people on earth
[4] We worship you, we give you thanks, we praise you for your glory.
[5] Light from Light, God from God
[6] Κύριος: chủ, chúa
[7] Đầu những năm 30 của thế kỷ 20, Ludwig Wolker thành lập một cuộc vận động giới trẻ tại Đức dưới tên gọi “Gloria Dei”. Việc dự phần vào cuộc vận động này cho nhiều người trẻ tầm nhìn và lòng can đảm trong thời kỳ khó khăn của Đức bắt đầu từ thập kỷ này. (Chú thích của tác giả)

On the Gloria – Về kinh Vinh Danh

Trích The Eucharist: Essence, Form, Celebration (1987) của Johannes H. Emminghaus, bản dịch tiếng Anh bởi Matthew J. O’Connell.


Kinh Vinh danh (Gloria) là một Thánh thi rất lâu đời và khả kính mà qua đó Giáo hội – được quy tụ trong Chúa Thánh Thần – tôn vinh và cầu xin Thiên Chúa Cha và Chiên Thiên Chúa. Kinh được động đoàn hát lên, hoặc được hát luân phiên giữa cộng đoàn và ca đoàn (schola). Nếu không hát, mọi người sẽ đọc đồng thanh hoặc đọc đối đáp.

Kinh Vinh danh được hát hoặc đọc trong các ngày Chúa nhật ngoài mùa Vọng và mùa Chay. Kinh cũng được đọc trong các ngày lễ trọng, lễ kính và các dịp lễ đặc biệt quan trọng khác.

Kinh Thương xót (Kyrie) và Kinh Vinh danh liên hệ mật thiết với nhau cả về mặt thần học lẫn lịch sử; hai kinh này có cấu trúc tương tự nhau, và đều là vinh tụng ca. Song, kinh Vinh danh lại có chút đối lập với kinh Thương xót, vì kinh Vinh danh là một Thánh thi ngợi ca, trong khi theo thời gian thì kinh Thương xót đã được rút gọn, và thường được xem như tiếng khóc ăn năn và lời cầu xin sự thương xót (đặc biệt là trong các thế kỷ gần đây) hơn là một lời tụng ca (như nó vốn là thế). Trước hiện thực về sự thay đổi đặc tính của kinh Thương xót, nhu cầu cho việc kiếm tìm một nguồn vui, đặc biệt trong các ngày lễ kính, hiện ra rõ ràng.

Không rõ từ khi nào kinh Vinh danh được đưa vào phụng vụ Roma. Một nguyên mẫu của Thánh thi này đã xuất hiện trong Apostolic Constitutions[1], nhưng do vài lý do nội bộ và dựa theo tiêu chuẩn hình thức lịch sử, ta phải nhận định rằng kinh Vinh danh mà chúng ta đọc ngày nay được giới thiệu chỉ sau thời Đức Thánh Giáo hoàng Gregoria Cả, và sau khi kinh Thương xót có được sự diễn dịch Ba ngôi[2], cũng từ thời của Đức Thánh Giáo hoàng. Kinh Vinh danh phải được xem là bản nối dài của kinh Thương xót như cách diễn giải đó.

Trong các sách bí tích thời Gregorian, các giám mục bắt kinh Vinh danh trong các ngày lễ Chúa nhật và các lễ kính; một linh mục chỉ được làm thế vào lễ Phục Sinh. (Ta cũng nên chú ý rằng dù kinh Vinh danh bắt đầu bằng bài ca của các thiên thần [Luca 2:14], kinh không phải là một bản thánh ca Kitô giáo từ ban đầu như nhiều người vẫn tin thế). Song từ thời kỳ đầu Trung cổ, các linh mục phải cầu nguyện với kinh Vinh danh vào các ngày Chúa nhật và các lễ kính quan trọng ngoài mùa Vọng và mùa Chay. Kinh Vinh danh cũng là một trong số ít các kinh được tìm thấy trong bộ lễ La ngữ, và từ thời Carolingian trở về sau rất phổ biến, ngay cả ngoài Thánh lễ; hơn nữa khi vua Charlemagne đưa Đức Thánh Giáo hoàng Leo III trở về thành Paderborn vào Nghị viện Toàn quyền (Imperial Diet) năm 799, người ta cũng hát vang kinh Vinh danh.

Trong Apostolic Constitutions, kinh Vinh danh – với vô số các trích dẫn từ Tin Mừng trong nó – có một cấu trúc ba phần rõ ràng (ba khổ thơ). Song theo hình thức La ngữ truyền thống, kinh Vinh danh có vẻ thiếu đi sự cấp tiến logic, và (có lẽ) nói cách rõ ràng hơn là chưa được khai triển trọn vẹn. Sự sắp đặt về Ba ngôi được thấy rất rõ trong nguyên bản Hy ngữ: “Chính cho Ngài, ôi lạy Chúa, mà vinh dự là thích đáng: cho Cha, qua Con và trong Thánh Thần. Amen”. Việc viết lại phiên bản tiếng Latin có thể có nhiều thế mạnh, nhưng rõ ràng là ủy ban cải cách không muốn làm lộn xộn “bản thánh ca cổ xưa và khả kính” này, có lẽ do những giá trị về mặt âm nhạc được gắn với nó từ thời thánh ca Gregorian, qua thời Palestrinian và các thời kỳ cổ điển cho đến hiện tại.

Phần đầu của kinh Vinh danh là lời tụng ca Thiên Chúa. Nó bắt đầu với bài hát của các thiên thần [Luca 2:14] và cùng với phần “Thánh, thánh, thánh” [Is. 6:3] được xem là “một bài ca ngợi khen thiên thượng đích thực”; do vậy kinh Vinh danh khởi đầu bằng đoạn này là rất phù hợp. Bài ca của các thiên thần trong bản kinh thánh Vulgate bằng La ngữ được chia thành 2 phần: “Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời – bình an dưới thế cho người Chúa thương.” Song bản Hy ngữ lại được chia thành 3 phần: “Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời – bình an dưới thế – ân sủng cho loài người.”
Bản Anh ngữ ngầm giữ lại hình thức động từ “to be” ở lối mong mỏi[3] : “Glory [be] to God…” Đây không phải là cách khả thi duy nhất để diễn giải bản văn gốc; lối trình bày cũng có thể được sử dụng trong bản dịch (“Glory is to God…”), vì mọi hình thức ca tụng Thiên Chúa từ thời Do Thái đều nhấn mạnh rằng Thiên Chúa đang được vinh danh[4] chứ không chỉ là những ước mong rằng Thiên Chúa được vinh danh trên trời dưới đất.

Bên cạnh lời ca tụng được mặc khải này, 5 lời ca khác được Giáo hội và Kitô hữu thêm vào (trong bản La ngữ) trong lời cầu nguyện: “Chúng con chúc tụng Chúa, chúng con chúc tụng Chúa, chúng con ngợi khen Chúa, chúng con tôn vinh Chúa, chúng con cảm tạ Chúa vì vinh quang cao cả Chúa.” Những lời cảm thán đức tin này là những tục lệ cổ xưa và lâu đời trong phụng vụ. Chúng được sử dụng trong việc thờ phượng hoàng đế nơi công cộng, và cũng xuất hiện trong các bối cảnh liên quan đến giáo hội như trong Cuộc khổ nạn của Thánh Polycarp thành Smyrna. Chúng cũng được tìm thấy trong lời nguyện Thánh thể trong các Phụng vụ phương Tây thời kỳ đầu.
Những lời tụng ca này thật đúng là dành cho từng Ngôi trong Ba Ngôi Cực Thánh. Trước hết, đối tượng của những lời tụng ca này hiển nhiên là Thiên Chúa Cha, Đấng được miêu tả (theo cách dịch sát nghĩa từ văn bản La ngữ) là “Lạy Chúa là Thiên Chúa, là vua trên trời, là Chúa Cha toàn năng.” Sau đó Ngôi hai được nói đến qua câu: “Lạy Chúa Giêsu Kitô, là Con một, Chúa là Thiên Chúa, là Chiên Thiên Chúa, là Con Đức Chúa Cha.”

Tới đây ta nghĩ rằng Chúa Thánh Thần sẽ được nhắc đến ngay sau đó, như trong bản kinh Vinh danh ta tìm thấy trong Sách Thánh Ca Bangor và trong một phiên bản đã sửa đổi từ Milan. Nhưng thay vào đó, sự ám chỉ về ơn cứu độ ẩn chứa trong “Chiên Thiên Chúa” dẫn tác giả bài thánh ca đến việc nói về hoạt động cứu chuộc của Đức Kitô bằng một lời tung hô 3 phần được thêm vào dưới dạng mệnh đề quan hệ:[5] (Đấng là) Đấng xóa tội trần gian, xin thương xót chúng con; (Đấng là) Đấng xóa tội trần gian, xin nhận lời chúng con khẩn cầu; (Đấng là) Đấng ngồi bên hữu Đức Chúa Cha, xin thương xót chúng con.” Những lời tung hô mới này dễ dàng đưa ta đến lời tụng ca[6] cấu trúc 3 phần nói về Đức Kitô: “Vì lạy Chúa Giêsu Kitô chỉ có Chúa là Đấng Thánh, chỉ có Chúa là Chúa, chỉ có Chúa là đấng Tối Cao.” Sau phần này, phần kết Ba Ngôi không thể thiếu được thêm vào: “cùng Đức Chúa Thánh Thần trong vinh quang Đức Chúa Cha.” Chỉ có trong câu này Chúa Thánh Thần được nhắc tới. Do vậy có sự tương đồng nhất định về cấu trúc và luồng suy nghĩ với kinh Tin kính của các Tông đồ, vì trong kinh Tin kính, phần nói về Chúa Cha khá xúc tích, phần nói về Chúa Con thì cụ thể trong khi Chúa Thánh Thần chỉ được nhắc đến ở phần cuối.

Phần thánh ca ngợi khen Đức Kitô có phần tương đồng trong lời nguyện Thánh Thể hay hồi chỉ[7] trong Phụng vụ của thánh Giáo phụ John Chrysostom. Trong đó linh mục dương cao Thánh Thể[8]: “Của Thánh dành cho dân thánh![9]” và ca đoàn sẽ đáp lại “Lạy Chúa Giêsu Kitô, chỉ có Chúa là Đấng Thánh, chỉ có Chúa là Chúa, trong vinh quang Đức Chúa Cha.[10]” Những lời tụng ca này đều có nguồn gốc từ Kinh Thánh, câu đầu tiên đến từ sách Lêvi (11:44), các câu còn lại đến từ Thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô (8:6) và Thư gửi tín hữu Philipphe (2:11).

Cũng thời điểm đó có một lời kinh ngợi ca tương tự xuất hiện trong Thánh lễ của Phụng vụ thời Thánh Giáo phụ Clement. Lời kinh này cũng liên hệ mật thiết với phần “Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời.” Từ tất cả những điều ấy ta có thể thấy rằng lời mô tả “rất lâu đời và khả kính” không đơn thuần là lời hoa mỹ khoa trương. Trong kinh Vinh danh, thật là ta đang cầu nguyện theo những truyền thống phụng vụ cổ xưa.

Song khó khăn hơn để quyết xem bài thánh ca này nên được trình bày thế nào trong phụng vụ chung. Đề mục trong Sách lễ Latin chỉ đơn thuần viết rằng: “Theo quy định, bài thánh ca này được hát lên hoặc đọc thuộc lòng.” Trong đề mục trong Sách lễ tiếng Đức lại viết: “Kinh Vinh danh được hát bởi toàn cộng đoàn hoặc theo cách hát đối đáp giữa cộng đoàn và ca đoàn hoặc bởi riêng ca đoàn.” Tương tự thế, Hướng Dẫn Chung gợi ý nhiều cách khác nhau để bắt kinh Vinh danh: “Kinh Vinh danh có thể được bắt lên bởi linh mục hoặc các ca viên hoặc có thể được đồng thanh hát lên.” (GI, no.87). Quan trọng là, theo nguyên tắc là kinh Vinh danh thuộc về toàn thể dân Chúa. Nếu linh mục bắt kinh, ngài làm thế dưới danh nghĩa là vị chủ chăn của cộng đoàn. Nhưng hay hơn, ngài nên để việc cất kinh cho các ca trưởng, là người đại diện cho cộng đoàn, thuận theo chân lý đó là người nào thì hãy làm, và hãy chỉ làm, việc của riêng người ấy. Nếu không có ca trưởng, việc bắt kinh có thể được trao cho linh mục.

Một điểm nữa đó là nếu ca trưởng hoặc linh mục chỉ hát hoặc đọc lên vài tiếng đầu của kinh như thường thấy như trong nghi thức hợp ca hoặc trong Thánh lễ có ca đoàn hát thưa đáp, thì khi đó ca trưởng hoặc linh mục đã tự chia bài ca của các thiên thần trong Kinh thánh ra một cách không mấy khéo léo. Sẽ tốt hơn nếu người bắt kinh hát hoặc đọc hẳn đoạn đầu và để cộng đoàn tham dự vào những lời ngợi ca sau đó.

Bên cạnh đó, sự hát lần lượt của cộng đoàn và ca đoàn (hoặc ca trưởng) được nói đến trong Hướng Dẫn Chung không nên được thực hiện cách máy móc là đọc theo từng vế như trong Thánh Vịnh. Thông thường, người ta làm thế, song sự phân chia không đồng đều của các lời tụng ca – được nhóm thành từng nhóm 3 hay 5 câu – không cho phép ta làm như vậy, hay ít nhất, ta sẽ không muốn phá đi cấu trúc thần học và mỹ học của bài thánh ca. Điều đó có nghĩa, trong phần này của phụng vụ, ta cần phải chú tâm nhiều hơn trước vào cấu trúc chính thống. Do vậy, nếu kinh Vinh danh đòi hỏi nhiều điều vượt qua khả năng của cộng đoàn, có lẽ cách tốt nhất hiện tại là để cho ca đoàn hát toàn bộ, hoặc hát chính trong phần ấy. Có lẽ sẽ sớm có các bản phổ nhạc mà cộng đoàn có thể tham phần qua các câu chúc tụng ngắn.

Lời đề tựa cũng cho phép cộng đoàn đọc kinh Vinh danh lên, song cách đó có phần không mang giá trị mỹ học lắm; ngoài ra, từ khía cạnh tâm linh, hay ít nhất từ một quan điểm có tầm và trong khuynh hướng của cộng đoàn, khó mà chấp nhận việc cứ vậy mà đọc kinh Vinh danh với một tông giọng đều đều. Phần ba của lời đề tựa trong Sách lễ tiếng Đức (và chỉ có trong bản này) chấp nhận cách cam chịu sự chựa chọn hạng hai này: “Kinh Vinh danh có thể được thay thế bằng bài hát Vinh danh.” Điều này tức khắc dẫn ta đến một vấn đề, vì trong Sách Thánh ca tiếng Đức mới (sách “Gotteslob” hay “Ngợi ca Thiên Chúa”) ta khó có thể tìm thấy một lựa chọn phù hợp cho “bài hát Vinh danh.” Những bài được chọn thường có nội dung rất nghèo nàn so với nguyên bản tuyệt vời của chúng, và chỉ nói lên được nhiều nhất là một điểm trong kho tàng phong phú của những lời ngợi ca chứa đựng trong kinh Vinh danh.

Chúng tôi nghĩ rằng công việc viết lại kinh Vinh danh thành một tác phẩm âm nhạc dễ hát trong khi vẫn giữ được giá trị cấu trúc và nội dung, cho phép cả ca trưởng, ca đoàn và cộng đoàn cùng tham phần cách hợp lý mà không máy móc sẽ là một ân phước lớn. Chỉ khi đó, kinh Vinh danh với các giá trị suy niệm quý giá của nó mới có thể hoàn toàn trở thành sản nghiệp của cộng đoàn như nó phải là thế, trong vai trò là bài thánh ca duy nhất trong Thánh Lễ.


Ghi chú

[1] Latin: Constitutiones Apostolorum xuất hiện tại Syria khoảng năm 380, sử dụng và suy diễn sách Didascalia, sách Didache và Traditio Apostolica (Truyền thống Tông đồ). Cuốn Constitutiones đã có một ảnh hưởng lâu dài trên kỷ luật truyền chức ở phương Đông, mặc dù nó chưa bao giờ được coi là một bộ sưu tập kinh điển chính thức. Bộ sưu tập dự kiến việc đặt tay với kinh khẩn cầu Thánh Linh, không chỉ cho các Giám mục, linh mục và phó tế, mà còn cho các nữ phó tế, phụ phó tế và người đọc sách nữa (x CA 8, 16-23)
Constitutiones Apostolorum không phải là Constitutio Apostolica nha MinhAnh! (English: Apostolic constitution = Tông hiến).
[2] Tham khảo thêm tại https://bit.ly/2HYz4hC
[3] Optative mood trong Hy ngữ
[4] …God is being glorified
[5] Relative clause
[6] Doxology
[7] Anaphora: Hồi chỉ.
Trong ngữ pháp tiếng Anh, “anaphora” là việc sử dụng một đại từ hoặc đơn vị ngôn ngữ khác để chỉ trở lại đến một từ hoặc cụm từ khác. Từ có nghĩa của nó từ một từ hoặc cụm từ trước được gọi là một ẩn dụ. Từ hoặc cụm từ trước được gọi là tiền đề,người giới thiệu, hoặc là cái đầu.
Tham khảo thêm tại https://bit.ly/2OyucRW
[8] “…calls out at the elevation of the species.”
[9] “The Holy to the holy!”
Tham khảo: https://bit.ly/2KVdhdN
[10] “One is holy, one is Lord: Jesus Christ, in the glory of God the Father.”

Design a site like this with WordPress.com
Get started