To become as little children

It’s about being innocent, simple, and it’s not about trying to have the traits that a child possesses. Rather, it’s about the status of a child and his total submission to his parents.

Greek NT: Nestle 1904 | ΚΑΤΑ ΜΑΤΘΑΙΟΝ 18 1 Ἐν ἐκείνῃ τῇ ὥρᾳ προσῆλθον οἱ μαθηταὶ τῷ Ἰησοῦ λέγοντες Τίς ἄρα μείζων ἐστὶν ἐν τῇ βασιλείᾳ τῶν οὐρανῶν; 2 καὶ προσκαλεσάμενος παιδίον ἔστησεν αὐτὸ ἐν μέσῳ αὐτῶν 3 καὶ εἶπεν Ἀμὴν λέγω ὑμῖν, ἐὰν μὴ στραφῆτε καὶ γένησθε ὡς τὰ παιδία, οὐ μὴ εἰσέλθητε εἰς τὴν βασιλείαν τῶν οὐρανῶν. 4 ὅστις οὖν ταπεινώσει ἑαυτὸν ὡς τὸ παιδίον τοῦτο, οὗτός ἐστιν ὁ μείζων ἐν τῇ βασιλείᾳ τῶν οὐρανῶν. 5  καὶ ὃς ἐὰν δέξηται ἓν παιδίον τοιοῦτο ἐπὶ τῷ ὀνόματί μου, ἐμὲ δέχεται·

King James Bible | Matthew 18 1 At the same time came the disciples unto Jesus, saying, Who is the greatest in the kingdom of heaven? 2 And Jesus called a little child unto him, and set him in the midst of them, 3 and said, Verily I say unto you, except ye be converted, and become as little children, ye shall not enter into the kingdom of heaven. 4 Whosoever therefore shall humble himself as this little child, the same is greatest in the kingdom of heaven. 5 And whoso shall receive one such little child in my name receiveth me.

A conversion – a turn – is asked of anyone – even to the disciples who have seemingly left everything to follow Jesus, who wishes to be in the kingdom of heaven, and that is to “humble oneself as a little child.”

In Jewish society, the notion of “being like little children” might be really different from how we now perceive it. Rather than for their innocence, enthusiasm, delight or simplicity, a Jewish child was here mentioned, more historically logical, for the fact that they were of no importance in their contemporary society: children are of no authority, no power, and no threat. Children are receptive, trustful, and obedient to their parents or the adult of authority: just like how Jesus has always been toward the Father.

But what does it mean to humble oneself as a little child? Although there could be many interpretations to that, there is some evidence in the Bible itself that delineates what it is really like to be humble.

The Greek word used is ταπεινόω – to humble, to humiliate. There are a few more verses in which inflections of ταπεινόω and its family members ταπείνωσις, εως, ἡ and ταπεινός, ή, όν are presented, and among these are two descriptive phrases about Jesus, and Mary:

ΚΑΤΑ ΜΑΤΘΑΙΟΝ 11:29 ἄρατε τὸν ζυγόν μου ἐφ’ ὑμᾶς καὶ μάθετε ἀπ’ ἐμοῦ, ὅτι πραΰς εἰμι καὶ ταπεινὸς τῇ καρδίᾳ, καὶ εὑρήσετε ἀνάπαυσιν ταῖς ψυχαῖς ὑμῶν·

Take my yoke upon you, and learn of me; for I am meek and lowly in heart: and ye shall find rest unto your souls.

ΚΑΤΑ ΛΟΥΚΑΝ 1:48 ὅτι ἐπέβλεψεν ἐπὶ τὴν ταπείνωσιν τῆς δούλης αὐτοῦ. ἰδοὺ γὰρ ἀπὸ τοῦ νῦν μακαριοῦσίν με πᾶσαι αἱ γενεαί·

For he hath regarded the low estate of his handmaiden: for, behold, from henceforth all generations shall call me blessed.

Therefore to be humble as a little child is to be like Jesus and Mary. It’s not about those characters that you normally thought of a child, it’s not about being innocent, simple, and it’s not about trying to have the traits that a child possesses. Rather, it’s about the status of a child and his total submission to his parents. It’s the perfect submission of the Son to the Father, and of Mary to God, manifested through every single event in their lives. I think it is this principle of total submission that springs moral excellence, and not the other way round.

The Gloria and Final Doxology

Các chú thích nếu không có giải thích gì thêm là chú thích của MinhAnh


Trích The Eucharistic Celebration: The Source and Summit of Faith của Adolf Adam, trang 27 – 30 và 93 – 94.


Kinh Vinh danh

Hướng Dẫn Chung gọi kinh Vinh danh là “một thánh thi cổ kính mà qua đó Giáo hội, được quy tụ trong Chúa Thánh Thần, ngợi ca và cầu xin Thiên Chúa Cha và Chiên Thiên Chúa” (GIRM 31). Theo ý kiến của các học giả đương thời, đây là một trong số các thánh thi Kitô Giáo thời đầu “được soạn theo hình thức thánh vịnh và tiếp nối truyền thống thánh thi của Tân Ước.”

Trong giáo hội Byzantine, kinh Vinh danh được sử dụng trong giờ kinh sáng (Orthros)[1]. Kinh được giới thiệu lần đầu tiên đến Giáo hội phương Tây như một phần của phụng vụ Thánh lễ, thường chỉ trong các dịp lễ đặc biệt quan trọng hoặc lễ kính. Ngày nay kinh Vinh danh được sử dụng trong “các ngày Chúa nhật ngoài mùa Vọng và mùa Chay, vào các ngày lễ trọng, lễ kính và trong các dịp lễ trọng thể đặc biệt khác” (GIRM 31).

Nói đến cấu trúc kinh Vinh danh, không khó để xác định rằng kinh gồm 3 phần: bài ca của các thiên thần, phần vinh danh Thiên Chúa và phần ngợi khen và dành riêng cho Đức Kitô.

Sự mô tả của thánh Luca về bài ca của các thiên thần trên cánh đồng tại Bethlehem là chủ đề căn bản của toàn bộ bài thánh thi. Văn bản gốc Hy ngữ có nghĩa “Vinh danh Thiên Chúa trên trời.”[2]. Phần vinh danh Thiên Chúa này được tỏ hiện rõ ràng nơi sự nhập thể của Con của Người như thánh ý đầy yêu thương của Thiên Chúa Ba Ngôi để ban ơn cứu độ. Chính Chúa Giêsu trong cuộc sống trần thế của Người đã trở nên một ví dụ tuyệt hảo nhất cho “vinh quang của Thiên Chúa Cha”; ta cũng xác tín lại điều này trong vinh tụng ca ở cuối lời kinh Thánh thể. Hoa trái của thánh ý cứu chuộc của người chính là “bình an dưới thế cho dân Người.”[3]. Ở đây, “bình an” nghĩa là “shalom” trong tiếng Hipri: nó bao gồm tất cả các ân sủng của sự cứu chuộc, bao gồm tất cả mọi sự an lành trong hồn xác từng cá nhân cũng như sự hoà hợp tuyệt đối giữa con người với Thiên Chúa hay giữa con người với nhau. Thêm nữa, bài ngợi ca của các thiên tháng là một lời tuyên bố Tin Mừng ngắn gọn trong sự trọn vẹn của nó. Sự ca ngợi Thiên Chúa theo sau đó phát xuất một cách tự nhiên từ trái tim tràn đầy sự kinh ngạc và biết ơn, và cứ thế cuộn dâng như những ngọn sóng:

“Chúng con thờ lạy Chúa, chính con cảm tạ Chúa, chúng con ngợi khen Chúa vì vinh quang của Chúa”[4]

Chủ đề tác động mạnh mẽ của sự tôn thờ chan chứa này một lần nữa được chỉ ra cách rõ ràng là “vinh quang” của Thiên Chúa. Điều này cho thấy rõ là lời cầu nguyện của Kitô hữu không đơn thuần là những thỉnh cầu.

Những người chỉ nhớ đến Chúa khi ở chìm đắm trong nghịch cảnh hoặc chỉ cầu nguyện để tránh sự dữ vẫn chỉ đứng ngoài lề của linh đạo Kitô Giáo. Đối với Kitô hữu, những lời ngợi ca vừa là thực tại hiện sinh luôn sẵn có, vừa là công trình của đời họ. Phụng vụ các giờ kinh của Giáo hội luôn đảm bảo rằng những lời cầu nguyện này sẽ không bao giờ mai một; như thế Giáo hội tham phần vào bài vinh tụng ca mà Con Thiên Chúa nhập thể đã mang cùng Người xuống thế gian, và “được hát vang từ đời này đến đời kia ở mọi sảnh nơi nước trời.” (SC 83).

Ở phần cuối cùng, bản thánh thi lại một lần nữa hướng về đối tượng của sự thờ phượng và lại nói về Người cách vô cùng tôn kính:

“Chỉ có Chúa là đấng Thánh,
chỉ có Chúa là Chúa,
chỉ có Chúa là Đấng Tối cao.”

Cấu trúc theo kiểu này gần như tự động dẫn đến phần dành cho Đức Kitô Giêsu. Bởi “Ánh Sáng bởi Ánh Sáng, Thiên Chúa bởi Thiên Chúa”[5] (Nicene Creed), Người tham phần vào vinh quang của Thiên Chúa Cha. Trong nhiều bản văn truyền thống của thánh thi này, Chúa Thánh Thần cũng được nhắc đến lúc này; thường được theo sau bởi “Amen”, để chỉ rõ rằng phiên khúc này của thánh thi đã kết thúc, chuẩn bị chuyển qua một phần mới.

Phần mới này thể hiện sự tôn kính dành riêng cho Đức Kito, bắt đầu với những danh xưng uy nghi dành cho Đấng Cứu Thế: “Lạy Chúa là Thiên Chúa, là Chiên Thiên Chúa, là Con Đức Chúa Cha.” Mỗi danh xưng này là một lời tuyên xưng Đức tin ngắn gọn trong Đức Kito. Nhờ vào niềm tin như vậy, phần tiếp theo là một phiên khúc ngắn những lời cầu khẩn:

“Chúa xoá tội trần gian xin thương xót chúng con;
Chúa ngự bên hữu Đức Chúa Cha xin nhận lời chúng con cầu xin.”

Nếu chúng ta để tâm về thời kỳ bản thánh thi này ra đời, ta có thể hiểu rõ hơn tính chất đặc biệt của lời ngợi ca cuối cùng (Lạy Chúa Giêsu Kitô, chỉ có Chúa là Đấng Thánh, chỉ có Chúa là Chúa, chỉ có Chúa là đấng tối cao). Đó là thời kỳ tôn vinh vua chúa, là thời hoàng kim của các vị thần, và thời này cũng bao gồm việc tế lễ. Theo đó là việc Kitô hữu bị áp bức, phần nhiều liên quan đến danh xưng “Kyrios”[6]. Những người từ chối dâng hương bị xem là mối hiểm họa của xã hội, là kẻ thù của Chúa và đế quốc. Đó là bối cảnh mang đến cho lời tuyên xưng về Đức Kitô bản chất mang tính sống còn. Đừng ai nghĩ rằng tính chất đó đã mất đi trong thời này. Ngày nay những tà thần và những mộng tưởng đầy quyến rũ vẫn tìm đường len lỏi vào tâm hồn con người. Kitô hữu ngày nay vẫn phải tuyên xưng “Chỉ có Chúa là đấng Tối cao” qua lời nói và cuộc đời của mình.

Bài thánh thi kết thúc với một lời tuyên xưng khẳng định về Ba Ngôi:

“Lạy Đức Giêsu Kitô,
cùng Đức Chúa Thánh Thần,
trong vinh quang Thiên Chúa Cha.”

Bất cứ ai hát bài thánh thi này cần hiểu rằng sự tôn vinh Thiên Chúa Ba Ngôi không dừng lại khi kết thúc lời hát, mà thay vào đó, kinh Vinh danh phải luôn sống động trong đời sống của chúng ta. Song để sống lời tuyên xưng này, không có một nhịp điệu phổ quát hay một sách hướng dẫn nào thích hợp với tình trạng của tất cả mọi người. Kinh Vinh danh khi được hát trong vòng lửa dữ tợn của cuộc tử đạo và trong sự kiệt quệ của những người đang luẩn quẩn trong lề thói u mê thường ngày của họ. Thật vậy, ngay cả việc chịu đựng các gánh nặng nề, bệnh tật hay đau khổ tâm hồn trong đời sống thường ngày mà không than phiền, cũng như sự trợ giúp tha nhân vác thập giá của họ cũng trở thành một áng kinh Vinh danh ca tụng Thiên Chúa. Mỗi Thánh lễ ngày Chúa nhật hay các ngày lễ mừng mà ta tham gia mời gọi ta canh tân tinh thần này của Gloria Dei[7] – Vinh Quang của Thiên Chúa.

Nói về việc nên hát hay đọc kinh Vinh danh, ta nên tham khảo trực tiếp đến Hướng Dẫn Chung: “Kinh được động đoàn hát lên, hoặc được hát luân phiên giữa cộng đoàn và ca đoàn. Nếu không hát, mọi người sẽ đọc đồng thanh hoặc đọc đối đáp.” (GIRM 31). Sách lễ tiếng Đức cho phép việc thay thế kinh Vinh danh bằng phiên bản bài hát Vinh danh. Đáng buồn thay nhiều bài hát được chọn cho mục đích này lại không đủ giàu có về mặt nội dung so với bản thánh thi này; mặc dù những bài hát này cũng ca tụng Thiên Chúa, chúng không tóm gọn được những sự kiện trong công trình cứu độ của Thiên Chúa qua Đức Kitô.

Vinh tụng ca kết thúc

Mọi lời nguyện Thánh thể đều kết thúc với lời chúc tụng Ba Ngôi theo cấu trúc của vinh tụng ca kết thúc. Lúc này, linh mục nâng cao Mình Máu Thánh mà hát hoặc đọc lên rằng:

“Chính nhờ Người,
với Người,
và trong Người,
trong sự hiệp nhất với Chúa Thánh Thần,
mà mọi danh dự và vinh quang đều quy về Chúa,
là Cha toàn năng,
đến muôn đời.”

Trong vinh tụng ca này chúng ta nhận ra “cấu trúc cổ điển ẩn chứa trong mọi lời nguyện Kitô Giáo”, đó là lời nguyện cầu đến Thiên Chúa Cha qua Đức Kitô Giêsu trong Chúa Thánh Thần. Cả cuộc sống trần thế của Chúa Giêsu là một sự tôn vinh cho Thiên Chúa Cha, như Người đã khẳng định trong lời cầu nguyện tư tế: “Phần con, con đã tôn vinh Cha ở dưới đất, khi hoàn tất công trình Cha đã giao cho con làm.” (Ga 17, 4). Đỉnh điểm của công trình này là sự hy sinh của Người trên thập giá, được nhớ đến cách thiêng liêng trong Lời nguyện Thánh thể. Trong sự hiệp thông sâu sắc với Người qua sức mạnh của vị thế tín hữu của ta trong Cơ thể Màu nhiệm của Người, chúng ta cũng được dâng lời ca tụng và ngợi khen Thiên Chúa Cha. Điều này diễn ra trong Chúa Thánh Thần, là tình yêu chảy ngược từ Chúa Con đến Chúa Cha.

Công đoàn củng cố lời vinh tụng này với một từ tiếng Hipri: “Amen”, có nghĩa “Vâng, thật là như vậy.” Justin Martyr, một triết gia Kitô giáo thời đầu, cho từ ngữ này một ý nghĩa vô cùng đặc biệt khi đọc sau lời tạ ơn. Học giả Kinh thánh vĩ đại là Thánh Jerome đã so sánh tiếng “Amen” hùng hồn của các tín hữu trong các giáo đường La Mã như tiếng sấm từ trời. Thánh Augustine mô tả nó như dấu ấn riêng của cộng đoàn dưới lời nguyện cầu của linh mục.

Ở cuối Lời nguyện Thánh thể, tiếng “Amen” này không chỉ hướng về lời vinh tụng ca kết thúc, mà thay vào đó, xác tín lại toàn bộ Lời nguyện Thánh thể, bao gồm cả sự hy sinh của Đức Kitô được nhắc đến trong lời nguyện cũng như sự tự hiến dâng của Giáo hội để trở thành một phần trong hy lễ của Người. Do đó, “Amen” là một phần quan trọng trong phần lời nguyện của cộng đoàn. Vì lý do này mà phần dẫn nhập của Sách lễ yêu cầu rằng linh mục chỉ được hạ bánh và chén lễ sau tiếng “Amen” này.


Ghi chú

[1] Trong Nghi lễ Byzantine của Giáo hội Chính thống Đông phương và các Giáo hội Công giáo Đông phương, Orthros (Hy ngữ ὄρθρος, có nghĩa là “rạng đông” hoặc “bình minh”) là giờ kinh cuối cùng trong bốn giờ kinh nguyện đêm. Trong các tu viện truyền thống, nó được tổ chức hàng ngày và kết thúc vào lúc mặt trời mọc.
Tham khảo thêm tại: https://en.wikipedia.org/wiki/Orthros
[2] Glory to God in the highest
[3] Peace to his people on earth
[4] We worship you, we give you thanks, we praise you for your glory.
[5] Light from Light, God from God
[6] Κύριος: chủ, chúa
[7] Đầu những năm 30 của thế kỷ 20, Ludwig Wolker thành lập một cuộc vận động giới trẻ tại Đức dưới tên gọi “Gloria Dei”. Việc dự phần vào cuộc vận động này cho nhiều người trẻ tầm nhìn và lòng can đảm trong thời kỳ khó khăn của Đức bắt đầu từ thập kỷ này. (Chú thích của tác giả)

Design a site like this with WordPress.com
Get started